Sáng Tạo Mới
Advertisement
  • Trang chủ
  • Tin tức
  • Lao động – Sáng Tạo
  • Khoa học – Công nghệ
  • Nhân vật
  • Thương hiệu
  • Văn Hóa – Xã Hội
Không có kết quả
Hiện thị tất cả kết quả
  • Trang chủ
  • Tin tức
  • Lao động – Sáng Tạo
  • Khoa học – Công nghệ
  • Nhân vật
  • Thương hiệu
  • Văn Hóa – Xã Hội
Sáng Tạo Mới
Không có kết quả
Hiện thị tất cả kết quả
Trang chủ Tin tức

Tái sử dụng nước thải sinh hoạt sau xử lý đạt QCVN 14:2008/BTNMT (Cột B) cho xả rửa bồn cầu có hợp pháp không?

Việc tái sử dụng nước thải sinh hoạt sau xử lý đạt QCVN 14:2008/BTNMT – cột B để xả rửa bồn cầu có thể hợp pháp, nếu được thiết kế, vận hành và giám sát đúng quy định, đảm bảo an toàn và vệ sinh môi trường. Tuy nhiên, cần thêm đánh giá rủi ro và quy trình kiểm soát chất lượng chặt chẽ.

10/04/2025
tại Tin tức
0
Share on FacebookShare on Twitter

STVN – Việc tái sử dụng nước thải sinh hoạt sau xử lý đạt QCVN 14:2008/BTNMT – cột B để xả rửa bồn cầu có thể hợp pháp, nếu được thiết kế, vận hành và giám sát đúng quy định, đảm bảo an toàn và vệ sinh môi trường. Tuy nhiên, cần thêm đánh giá rủi ro và quy trình kiểm soát chất lượng chặt chẽ.

Ts. Trịnh Xuân Đức, Ths. Chu Văn Nam

Đặt vấn đề

Tại các khu đô thị và khu dân cư, nước thải sinh hoạt là một trong những nguồn nước thải phổ biến nhất, phát sinh từ các hoạt động hàng ngày của con người như ăn uống, tắm giặt, vệ sinh cá nhân. Theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải sinh hoạt (QCVN 14:2008/BTNMT), nước thải này cần được xử lý trước khi xả ra môi trường để hạn chế tác động tiêu cực đến hệ sinh thái và sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên, trong bối cảnh tài nguyên nước ngày càng khan hiếm và áp lực môi trường gia tăng, việc tái sử dụng nước thải sau xử lý đang trở thành một giải pháp bền vững được nhiều quốc gia và tổ chức khuyến khích.

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã đề cập đến việc tái sử dụng nước thải như một biện pháp nhằm giảm ô nhiễm môi trường và tiết kiệm nguồn nước sạch. Điều này mở ra cơ hội cho việc áp dụng các công nghệ xử lý nước tiên tiến nhằm biến nước thải thành một nguồn tài nguyên có thể khai thác. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các cơ quan chức năng hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về những mục đích sử dụng nước thải sau xử lý cũng như các quy chuẩn chất lượng đi kèm cho từng hình thức tái sử dụng. Điều này đặt ra thách thức lớn trong việc triển khai các giải pháp tái sử dụng nước thải trong thực tế, đặc biệt là đối với các mục đích sử dụng không yêu cầu nước có chất lượng quá cao nhưng vẫn cần đảm bảo an toàn và hợp pháp.

Bài viết này sẽ tập trung phân tích trường hợp tái sử dụng nước thải sinh hoạt sau xử lý đạt cột B của QCVN 14:2008/BTNMT cho mục đích xả rửa bồn cầu. Câu hỏi đặt ra là liệu việc này có được pháp luật cho phép hay không, có phù hợp với các quy định hiện hành về môi trường và sức khỏe hay không. Thông qua việc đánh giá các yếu tố liên quan, bài viết sẽ góp phần làm rõ những bất cập trong khung pháp lý hiện tại và đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc tái sử dụng nước thải một cách hợp lý, hiệu quả và bền vững.

Hình 1: Thiết bị xử lý nước thải sinh hoạt tự động DVIC (Giải thưởng sáng tạo KHCN Việt Nam)

1. Chất lượng nước cấp cho rửa toilet và nhà vệ sinh được quy định thế nào?

Theo QCVN 01-1:2023/BYT quy định mức giới hạn các thông số chất lượng đối với nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt do Bộ Y tế ban hành, các chỉ tiêu vi sinh như E.coli và Coliform, cùng các chỉ tiêu hóa lý như pH, độ đục, kim loại nặng và chất hữu cơ, đều được quy định nghiêm ngặt. Những tiêu chí này áp dụng cho mọi nguồn nước tiếp xúc với con người, bao gồm cả nước cấp cho vệ sinh. Việc sử dụng nước không đạt chuẩn có thể dẫn đến tích tụ vi khuẩn trong đường ống, phát tán mầm bệnh qua không khí hoặc gây ăn mòn thiết bị.

Hệ thống cấp nước đô thị phải tuân thủ TCVN 13606:2023, quy định yêu cầu thiết kế mạng lưới đường ống phải ngăn chặn hiện tượng nhiễm khuẩn ngược. Tiêu chuẩn này nhấn mạnh việc lắp đặt van chống trào ngược, duy trì áp lực nước ổn định và sử dụng vật liệu ống đạt chuẩn TCVN 12502:2024 về khả năng chống ăn mòn. Đồng thời, Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 13982:2024 Nhà vệ sinh công cộng trong đô thị – Yêu cầu thiết kế và vận hành, yêu cầu nhà vệ sinh công cộng phải sử dụng nguồn nước đã qua xử lý khử trùng, đảm bảo tồn lưu chlorine tự do tối thiểu 0,2 mg/l để kiểm soát vi sinh.

Trong trường hợp tái sử dụng nước thải hoặc nước mưa cho mục đích vệ sinh, QCVN 14:2023/BTNMT quy định bắt buộc xử lý đạt tiêu chuẩn loại A trước khi đưa vào hệ thống. Quy trình này bao gồm lọc thô, khử trùng bằng tia UV hoặc chlorine, cùng hệ thống giám sát tự động các thông số pH, độ đục và hàm lượng chất rắn lơ lửng. Tuy nhiên, các chuyên gia y tế khuyến cáo cần duy trì chỉ tiêu vi sinh tương đương nước sinh hoạt để phòng ngừa dịch bệnh.

Các nghiên cứu dịch tễ học gần đây chỉ ra mối liên hệ giữa nước xả vệ sinh kém chất lượng và sự lây lan của các bệnh đường tiêu hóa. Ví dụ, vi khuẩn Legionella pneumophila có thể phát tán qua hệ thống xả toilet không đạt chuẩn, đặc biệt nguy hiểm trong bệnh viện và trường học. Do đó, Thông tư 24/2023/TT-BXD yêu cầu kiểm định chất lượng nước định kỳ 6 tháng một lần tại các công trình công cộng, bao gồm cả mẫu nước từ vòi xả thiết bị vệ sinh.

Việc thống nhất tiêu chuẩn chất lượng nước cho mọi mục đích sử dụng trong công trình không chỉ bảo vệ sức khỏe mà còn tối ưu hóa chi phí vận hành. Khi áp dụng hệ thống cấp nước đồng bộ, các rủi ro về ăn mòn đường ống, tắc nghẽn do cặn bẩn hoặc chi phí xử lý sự cố đều được giảm thiểu. Điều này khẳng định tính khoa học và thực tiễn trong các quy định pháp lý hiện nay về chất lượng nước cấp cho thiết bị vệ sinh.

Chất lượng nước cung cấp cho các thiết bị vệ sinh như toilet, bồn cầu và bồn tiểu phải đáp ứng tiêu chuẩn tương đương nước sinh hoạt theo quy định pháp luật hiện hành. Điều này nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng và ngăn ngừa rủi ro liên quan đến ô nhiễm nguồn nước. Mặc dù nước này không được uống trực tiếp, nhưng qua quá trình xả rửa, nước có thể tạo thành aerosol hoặc gây lây nhiễm chéo trong hệ thống ống dẫn, do đó cần đảm bảo chất lượng nước an toàn vệ sinh.

Hình 2: QCVN 14:2008/BTNMT vể nước thải sinh hoạt

2. 2. Quy định hiện hành về nước thải sau xử lý được sử dụng làm gì?

Việc tái sử dụng nước thải sinh hoạt đã qua xử lý cho mục đích vệ sinh, chẳng hạn rửa bồn cầu, là vấn đề cần xem xét dưới góc độ quy định pháp lý và tiêu chuẩn kỹ thuật hiện hành. Tại Việt Nam, QCVN 14:2008/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải sinh hoạt – quy định giới hạn các thông số ô nhiễm khi xả thải ra môi trường nhưng không trực tiếp điều chỉnh việc tái sử dụng nước sau xử lý. Cụ thể, mức B của quy chuẩn này áp dụng cho nước thải xả vào nguồn tiếp nhận không dùng cho cấp nước sinh hoạt, chẳng hạn sông hoặc kênh rạch ít nhạy cảm, nhưng không đề cập rõ ràng đến việc dùng lại nước cho mục đích vệ sinh. Do thiếu cơ sở pháp lý cụ thể, việc tái sử dụng nước thải sinh hoạt đã xử lý để rửa toilet hiện không được phép tại Việt Nam.

Trên thế giới, nhiều quốc gia như Nhật Bản, Singapore hay Mỹ đã thiết lập hệ thống tiêu chuẩn riêng cho nước tái sử dụng. Chẳng hạn, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị nước dùng cho mục đục vệ sinh phải đảm bảo các chỉ tiêu vi sinh như E. coli dưới 100 CFU/100ml, BOD5 dưới 10 mg/l, và tổng chất rắn lơ lửng (TSS) dưới 10 mg/l. Tiêu chuẩn của Mỹ (EPA) yêu cầu bổ sung khử trùng bằng chlorine để đạt nồng độ dư 0,5–1 mg/l, đồng thời kiểm soát chặt chẽ kim loại nặng và hợp chất hữu cơ khó phân hủy. Trong khi đó, Việt Nam chưa ban hành quy chuẩn tương ứng, dẫn đến khoảng trống trong quản lý và ứng dụng công nghệ tái chế nước thải.

So sánh với quốc tế, sự thiếu vắng các quy định cụ thể về chất lượng nước tái sử dụng tại Việt Nam làm hạn chế khả năng áp dụng mô hình này, dù tiềm năng tiết kiệm tài nguyên là rõ rệt. Để triển khai an toàn, cần xây dựng bộ tiêu chuẩn riêng, tích hợp yêu cầu về vi sinh vật, hóa chất độc hại, và quy trình giám sát liên tục, đồng thời tham khảo kinh nghiệm từ các nước đã thành công. Kết luận, việc tái sử dụng nước thải sinh hoạt cho mục đục vệ sinh hiện chưa thể thực hiện tại Việt Nam do rào cản pháp lý, nhưng nếu được cho phép trong tương lai, cần tuân thủ các tiêu chí khắt khe tương đương tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo an toàn sức khỏe cộng đồng và môi trường.

Kết luận: Không được phép tái sử dụng.

 3. Vì sao chất lượng nước cần đạt để đảm bảo tiêu chuẩn để cung cấp cho rửa toilet

Nhà vệ sinh là không gian có mật độ vi khuẩn cao do môi trường ẩm ướt và thường xuyên tiếp xúc với chất thải hữu cơ. Các nghiên cứu chỉ ra rằng bề mặt bồn cầu, sàn nhà và bồn rửa tay là nơi tích tụ nhiều vi khuẩn như Escherichia coli, Salmonella và Staphylococcus aureus, với mật độ có thể lên đến hàng nghìn đến hàng triệu CFU/cm². Việc sử dụng nước xả rửa không đạt tiêu chuẩn làm tăng nguy cơ phát tán vi khuẩn qua sol khí – các hạt lơ lửng trong không khí hình thành khi xả nước. Một nghiên cứu của Đại học Arizona (2018) phát hiện rằng mỗi lần xả bồn cầu có thể phát tán hàng nghìn hạt sol khí chứa mầm bệnh, lan tỏa trong phạm vi 1-2 mét và tồn tại đến 30 phút trong không khí. Điều này lý giải tại sao không gian nhà vệ sinh dễ trở thành ổ dịch nếu không được vệ sinh đúng cách.

Quá trình xả rửa tạo ra sol khí thông qua cơ chế va đập giữa dòng nước và bề mặt bồn cầu, kết hợp với sự xáo trộn không khí. Các hạt sol khí này không chỉ chứa vi khuẩn mà còn mang theo hóa chất tẩy rửa như clo hoặc axit clohydric nếu nước xả không đạt chuẩn. Một phân tích từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO, 2020) cảnh báo rằng hít phải sol khí chứa clo có thể gây kích ứng đường hô hấp, làm trầm trọng các bệnh như hen suyễn, đồng thời tạo điều kiện cho vi khuẩn kháng clo phát triển. Điều này đặc biệt nguy hiểm trong các nhà vệ sinh công cộng, nơi mật độ sử dụng cao và hệ thống thông gió kém.

 

Hình ảnh 3: Nguy cơ vi sinh từ sol khí trong toilet

Nước xả rửa chứa các chất ô nhiễm như BOD (nhu cầu oxy sinh hóa), Amoni, TSS (tổng chất rắn lơ lửng) và vi sinh vật gây hại sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống vệ sinh và môi trường. Chỉ số BOD cao cho thấy lượng chất hữu cơ dễ phân hủy lớn, tạo nguồn dinh dưỡng cho vi khuẩn và nấm mốc phát triển, dẫn đến ăn mòn bề mặt gạch men và đường ống 911. Amoni (NH₃/NH₄⁺) trong nước thải khi kết hợp với clo tạo thành chloramine – hợp chất gây mùi khó chịu và có khả năng ăn mòn kim loại, làm giảm tuổi thọ thiết bị. TSS tích tụ trong đường ống gây tắc nghẽn, tạo môi trường yếm khí cho vi khuẩn kỵ khí như Clostridium phát triển, phát thải khí H₂S độc hại. Ngoài ra, vi sinh vật kháng clo như Cryptosporidium có thể tồn tại trong nước, gây ô nhiễm chéo và làm lây lan bệnh đường tiêu hóa.

Việc đảm bảo nước xả rửa đạt tiêu chuẩn nước sạch sinh hoạt không chỉ bảo vệ sức khỏe con người mà còn giảm thiểu tác động đến môi trường. Tiêu chuẩn này yêu cầu loại bỏ các mầm bệnh, kiểm soát nồng độ hóa chất và hạn chế phát tán sol khí độc hại. Các giải pháp như sử dụng hệ thống lọc sinh học kết hợp UV hoặc thay thế hóa chất độc hại bằng enzyme vi sinh đang được khuyến nghị để cân bằng giữa hiệu quả làm sạch và an toàn sinh thái 1312.

4. Đề xuất bổ sung quá trình xử lý nước thải nhằm đảm bảo quá trình tái sử dụng cho việc xả rửa toilet

Việc tái sử dụng nước thải sau xử lý cho mục đích xả rửa toilet đòi hỏi một hệ thống xử lý tiên tiến nhằm đảm bảo chất lượng nước đầu ra phù hợp với các quy chuẩn môi trường và khuyến cáo về sức khỏe. Một số nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra rằng việc áp dụng các công nghệ xử lý phù hợp có thể giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe con người.

Một trong những giải pháp quan trọng là sử dụng giá thể vi sinh trong các bể hiếu khí và thiếu khí nhằm tăng cường hiệu suất xử lý. Các giá thể như DHY01 có khả năng cung cấp bề mặt cho vi sinh vật phát triển, từ đó nâng cao quá trình phân hủy sinh học các chất hữu cơ và amoni trong nước thải. Theo nghiên cứu của Metcalf & Eddy (2014), việc sử dụng giá thể vi sinh có thể giúp hệ thống duy trì ổn định hơn, giảm tải lượng ô nhiễm đầu ra và đảm bảo nước thải đạt cột A của QCVN 14:2008/BTNMT.

Bên cạnh đó, hệ thống lọc than hoạt tính đóng vai trò quan trọng trong việc loại bỏ các hợp chất hữu cơ còn sót lại, kim loại nặng, cũng như amoni. Than hoạt tính có diện tích bề mặt lớn và khả năng hấp phụ cao, giúp loại bỏ các chất gây màu, mùi và độc tính trong nước thải. Theo nghiên cứu của Fu & Wang (2011), than hoạt tính có thể giảm hiệu quả nồng độ COD và các hợp chất hữu cơ khó phân hủy, từ đó giúp nước sau xử lý đạt tiêu chuẩn của QCVN08-MT:2015/BTNMT.

Hệ thống khử trùng bằng clo hoạt tính, ozon hoặc tia UV cần được triển khai nhằm tiêu diệt vi khuẩn, vi rút và nấm mốc có trong nước thải. Ozon có khả năng oxy hóa mạnh, giúp loại bỏ vi sinh vật và phá vỡ cấu trúc của nhiều chất hữu cơ. Tia UV là phương pháp thân thiện với môi trường và không để lại dư lượng hóa chất trong nước. Theo WHO (2017), việc sử dụng tia UV có thể tiêu diệt đến 99,99% vi khuẩn E. coli và Coliform, từ đó đảm bảo nước sau xử lý đáp ứng tiêu chuẩn tái sử dụng.

Việc giám sát chất lượng nước thải là yếu tố then chốt trong hệ thống tái sử dụng nước. Chỉ tiêu E. coli cần được kiểm soát dưới 100 CFU/100 mL, trong khi tổng Coliform không vượt quá 200 CFU/100 mL theo khuyến nghị của WHO. Theo báo cáo của Jiménez & Asano (2008), việc giám sát liên tục các chỉ tiêu này giúp đảm bảo nước sau xử lý không gây rủi ro cho sức khỏe con người khi sử dụng gián tiếp. Ngoài ra, các chỉ tiêu như BOD (≤ 10 mg/L), TSS (≤ 10 mg/L) và amoni (≤ 0,5 mg/L) cũng cần được kiểm soát để đảm bảo nước thải sau xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường.

Như vậy, việc bổ sung các công nghệ xử lý nước thải tiên tiến và thiết lập cơ chế giám sát chặt chẽ là giải pháp quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng nước tái sử dụng cho mục đích xả rửa toilet. Các nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng việc áp dụng giá thể vi sinh, hệ thống lọc than hoạt tính và công nghệ khử trùng phù hợp có thể giúp nâng cao hiệu suất xử lý, bảo vệ môi trường và đảm bảo sức khỏe cộng đồng.

Thẻ: nuocthaisinhhoatQCVN14xulynuocthai

Tin liên quan

Để sống thọ 120 tuổi bạn nhất thiết phải đọc hết các điều sau
Tin tức

Để sống thọ 120 tuổi bạn nhất thiết phải đọc hết các điều sau

05/04/2025
Bão tố phòng bầu dục và “thảm kịch” ngoại giao
Tin tức

Bão tố phòng bầu dục và “thảm kịch” ngoại giao

01/03/2025
Phục hồi sông Tô Lịch cần tầm nhìn tổng thể và dài hạn
Tin tức

Phục hồi sông Tô Lịch cần tầm nhìn tổng thể và dài hạn

27/02/2025
Đọc văn chương trẻ viết về đề tài Lịch sử
Tin tức

Đọc văn chương trẻ viết về đề tài Lịch sử

26/02/2025
Giả thuyết về sự sống phụ thuộc vào Enzyme
Khoa học - Công nghệ

Giả thuyết về sự sống phụ thuộc vào Enzyme

26/02/2025

Bài nổi bật

121-6189f17f4efd0

Phóng thành công vệ tinh NanoDragon của Việt Nam lên quỹ đạo

09/11/2021
trungtamtoanhocvatly-617c2144e6fec

Ra mắt 2 trung tâm quốc tế về vật lý và toán học được UNESCO công nhận

30/10/2021
tienkts1-617cb61f5aa75

Tiền kỹ thuật số thay thế cho tiền mặt?

01/11/2021

Duyệt theo thẻ

AI anolytea7 baovemoitruong carbon congnghe congnghexanh CẮM LÀ CHẠY doanhnghiep doanhnhan dotquy enzyme FDI gdp giathanhsanpham gout ionam khoahoc kinhdoanh kynguyenmoi lucgiac lyhtuyettrochoi maykhicham moitruong neroh ngocleninh nguồn lực nguồn lực sản phẩm nhân vật nobel NSƯT Hồng Hạnh - Giám đốc Nhà hát nuoclucgiac nuocnangluongsongnuocneroh phamvinhquang songterahertz suckhoe thutuc tin tức TS. Trịnh Xuân Đức tstrinhxuanduc Tết ungdungAI vannanthamnhung vietnam viện SIIEE yhoc

Cơ quan chủ quản: VIỆN KHOA HỌC KỸ THUẬT HẠ TẦNG VÀ MÔI TRƯỜNG (SIIEE)

Viện trưởng: Tiến sĩ TRỊNH XUÂN ĐỨC

Chỉ đạo nội dung: Nhà văn CAO THÂM

Vận hành bởi TRUNG TÂM TÁC PHẨM MỚI

Giám đốc Truyền thông (SIIEE): TRẦN THỊ NHƯ PHƯƠNG

Địa chỉ: Số 33, lô 2A,  đường Trung Yên 11, P. Trung Hòa, Q.Cầu Giấy, Hà Nội

Email: vienkhoahocsiiee@gmail.com

Điện thoại: 0896 681 499 – 0983 585 466

Website đang làm thủ tục cấp phép, điều hành phi lợi nhuận bởi các tình nguyện viên.

Không có kết quả
Hiện thị tất cả kết quả
  • Trang chủ
  • Tin tức
  • Lao động – Sáng Tạo
  • Khoa học – Công nghệ
  • Nhân vật
  • Thương hiệu
  • Văn Hóa – Xã Hội

Website hiện tại đang trong quá trình lập trình và chạy thử trên mạng internet