STVN – Nghị định 08/2022/NĐ-CP đã quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ Môi trường về đánh giá tác động môi trường, chiến lược môi trường quốc gia, quy hoạch môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường. Với nhiều chính sách mới mang tính đột phá, Luật BVMT năm 2020 tạo bước tiến lớn trong công tác BVMT ở nước ta.
Ts. Trịnh Xuân Đức, Ths. Nguyễn Công Minh
Tổng quan:
Hoạt động thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và cấp phép môi trường đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, đảm bảo sự phát triển bền vững. Hiện nay, hoạt động này được thực hiện theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Nghị định 08/2022/NĐ-CP đã quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ Môi trường về đánh giá tác động môi trường, chiến lược môi trường quốc gia, quy hoạch môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường. Đồng thời, Thông tư 02/2022/TT-BTNMT cũng đã quy định trình tự, thủ tục thực hiện đánh giá tác động môi trường, thẩm định báo cáo ĐTM, công bố thông tin về đánh giá tác động môi trường và quản lý dự án đầu tư.
Đối tượng chính của hoạt động thẩm định báo cáo ĐTM là các dự án thuộc danh mục phải thực hiện ĐTM theo quy định của pháp luật. Các cơ quan thẩm định chính là Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT) ở cấp quốc gia và Sở TNMT tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở cấp tỉnh. Quy trình thẩm định bao gồm các bước: tiếp nhận hồ sơ, thẩm định sơ bộ, thẩm định chuyên sâu và phê duyệt kết quả thẩm định.
Cấp phép môi trường áp dụng cho các tổ chức, cá nhân hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Cơ quan cấp phép tương tự như cơ quan thẩm định, bao gồm Bộ TNMT ở cấp quốc gia và Sở TNMT tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở cấp tỉnh.
Phân tích sơ bộ về khối lượng công việc tại địa phương và Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT) cho thấy dư địa cho cán bộ trung ương vẫn còn, và vấn đề không phải là phân cấp, phân quyền nhiều cho địa phương mà là vấn đề cải cách thủ tục hành chính và loại bỏ các công đoạn không cần thiết.
Đầu tiên, khi xem xét về số lượng hồ sơ, mỗi tỉnh xử lý khoảng 200 hồ sơ ĐTM mỗi năm, tức là tổng cộng 12.600 hồ sơ cho cả nước. Trong khi đó, Bộ TNMT chỉ xử lý khoảng 600 hồ sơ ĐTM và 600 hồ sơ GPMT mỗi năm, chiếm khoảng 10% tổng số hồ sơ. Điều này cho thấy khối lượng công việc chủ yếu được thực hiện tại địa phương.
Tuy nhiên, khối lượng công việc này đã tạo ra tình trạng quá tải. Bình quân, mỗi cán bộ chuyên trách tại địa phương phải xử lý từ 30 đến 40 hồ sơ ĐTM và GPMT mỗi năm. Trong khi đó, tại Bộ TNMT, con số này chỉ là khoảng 20 hồ sơ/cán bộ/năm, chia làm hai đơn vị xử lý là Vụ môi trường thẩm định ĐTM và Cục Kiểm soát ô nhiễm thẩm định cấp GPMT.
Vấn đề không nằm ở việc phân cấp và phân quyền nhiều cho địa phương, mà thay vào đó là cần tập trung vào việc cải cách thủ tục hành chính và loại bỏ các công đoạn không cần thiết. Việc này có thể giúp giảm bớt áp lực công việc cho cán bộ tại cấp địa phương và tạo điều kiện cho họ có thể tập trung vào các nhiệm vụ quan trọng hơn, đồng thời giảm thiểu thời gian và chi phí cho các doanh nghiệp và tổ chức tham gia quy trình đánh giá tác động môi trường và cấp phép môi trường.
Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường vẫn đối diện với một số thách thức đáng kể, như đã báo cáo bởi Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2022.
Một trong những vấn đề nổi bật là tình trạng chậm trễ trong quá trình thẩm định và cấp phép, với 30% hồ sơ ĐTM vượt quá thời hạn quy định và 25% doanh nghiệp phản ánh gặp khó khăn vì thủ tục cấp phép rườm rà.
Ngoài ra, chất lượng hồ sơ đánh giá tác động môi trường (ĐTM) cũng còn nhiều hạn chế, khi có đến 40% hồ sơ thiếu tính chính xác và khoa học, cùng với 60% hồ sơ chưa đánh giá đầy đủ các tác động môi trường.
Thủ tục cấp Giấy phép môi trường (GPMT) cũng gặp vấn đề. Điểm c Khoản 1 Điều 28 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP quy định các doanh nghiệp (DN) phải hoàn thành các công trình BVMT rồi mới làm hồ sơ xin GPMT. Chi phí đầu tư công nghệ xử lý nước thải, chất thải và các hệ thống quản lý môi trường khác có thể khá lớn và làm tăng chi phí thẩm định, tạo gánh nặng cho DN khi làm các thủ tục xin GPMT. Bên cạnh đó, Luật BVMT 2020 quy định thời gian cấp GPMT chỉ khoảng 30-45 ngày làm việc. Tuy nhiên, việc tích hợp nhiều loại giấy phép trong một sẽ khiến cơ quan có thẩm quyền mất nhiều thời gian để kiểm tra, xác minh, thẩm định về việc đáp ứng các điều kiện theo Luật, trong khi nhân lực hạn chế. Vì vậy, thời gian thực tế để xin được GPMT thông thường phải mất ít nhất là 1 năm hoặc hơn 1 năm. Đây là một rủi ro, DN cần phải lưu ý khi chi phí đầu tư cao cho các công nghệ xử lý nước thải, chất thải và các hệ thống quản lý môi trường khác. Chi phí đầu tư cao này có thể khiến cho việc xin GPMT trở nên khó khăn hơn. Việc nâng chi phí thẩm định có thể là một rào cản đối với các DN trong việc xin giấy phép do chi phí thẩm định cao, nếu DN không đáp ứng được sẽ rất khó để có thể xin giấy phép.
Công tác quản lý sau cấp phép môi trường cũng chưa đạt hiệu quả như mong đợi, khi có đến 20% cơ sở được cấp GPMT vi phạm quy định về môi trường và 50% các trường hợp vi phạm chưa được xử lý nghiêm minh.
Về phân cấp thẩm định, cấp phép, việc này cũng chưa được rõ ràng và cụ thể, gây ra sự chồng chéo và phiền hà cho người dân cũng như doanh nghiệp.
Nhìn chung, các số liệu và báo cáo từ các nguồn như Bộ Tài nguyên và Môi trường, VCCI, MONRE Hà Nội, và Thanh tra Chính phủ đã nêu rõ một loạt những vấn đề cần được cải thiện trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tại Việt Nam vào năm 2022.
Vấn đề trong dự thảo “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường”
Phân tích lý do sửa đổi Nghị định 08
(1). Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương:
– Việc phân cấp, phân quyền cho địa phương trong giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) nói chung và trong lĩnh vực môi trường nói riêng là một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước.
– Nghị định 08/2022/NĐ-CP hiện hành chưa thực sự phân cấp mạnh mẽ cho địa phương trong lĩnh vực môi trường, dẫn đến tình trạng trọng tâm vào cấp Trung ương, gây chậm trễ trong giải quyết TTHC, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và doanh nghiệp.
– Xác định rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành để tránh chồng chéo, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp, trong đó cần đẩy nhanh áp dụng “Thông tư quy định về phân cấp, ủy quyền cho Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế thực hiện thẩm định, phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường; cấp, cấp đổi, điều chỉnh, cấp lại, thu hồi giấy phép môi trường” cơ chế để phẩn cấp cho Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh giải quyết thủ tục hành chính về môi trường nhằm giảm áp lực cho các cơ quan hành chính các cấp của tỉnh.
– Việc sửa đổi Nghị định 08/2022/NĐ-CP cần phân cấp rõ ràng, cụ thể các trách nhiệm, quyền hạn cho địa phương trong việc thẩm định, cấp phép, quản lý về môi trường. Đặc biệt chú ý đến điều kiện phân cấp, phân quyền tại khoản 1 Điều 6 Dự thảo Thông tư quy định về phân cấp, ủy quyền cho Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế thực hiện thẩm định, phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường; cấp, cấp đổi, điều chỉnh, cấp lại, thu hồi giấy phép môi trường:
+ Có bộ phận chuyên môn về bảo vệ môi trường từ bảy (07) biên chế công chức trở lên đối với Ban quản lý khu công nghiệp của Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, từ sáu (06) biên chế công chức trở lên đối với Ban quản lý khu công nghiệp của cấp tỉnh loại I, từ năm (05) biên chế công chức trở lên đối với Ban quản lý khu công nghiệp của cấp tỉnh loại II và loại III, có nhân sự phụ trách về bảo vệ môi trường;
+ Nhân sự phụ trách về bảo vệ môi trường quy định tại điểm a khoản này phải có trình độ đại học trở lên thuộc các chuyên ngành về quản lý môi trường; khoa học, công nghệ, kỹ thuật môi trường; hóa học, sinh học và có tối thiểu ba (03) năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực môi trường;
+ Các nhân sự quy định tại khoản này phải được đào tạo chuyên ngành môi trường hoặc chuyên môn phù hợp để thực hiện thẩm định, phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường; cấp, cấp đổi, điều chỉnh, cấp lại, thu hồi giấy phép môi trường, có trình độ từ đại học trở lên;
+ Chỉ được ủy quyền đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường quy về yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế.
(2). Nâng mức công suất của một số loại hình dự án:
– Một số loại hình dự án được đầu tư mạnh mẽ tại các địa phương trong thời gian qua như dự án sản xuất linh kiện, thiết bị điện, điện tử; dự án chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô công nghiệp; dự án xây dựng trụ sở làm việc, nhà văn hóa có yêu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất trồng lúa nước từ 02 vụ trở lên.
Mức công suất quy định tại Nghị định 08 hiện hành chưa phù hợp với thực tế phát triển kinh tế – xã hội, hạn chế khả năng thu hút đầu tư của địa phương.
– Việc rà soát, nâng mức công suất của các loại hình dự án này là cần thiết để tháo gỡ vướng mắc cho địa phương, tạo điều kiện thu hút đầu tư, phát triển kinh tế – xã hội.
(3). Ngoài ra, sửa đổi Nghị định 08 còn nhằm mục đích:
– Cập nhật, bổ sung các quy định mới phù hợp với Luật Bảo vệ môi trường 2020.
– Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất.
Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường.
Các vấn đề cần xem xét cân nhắc trong dự thảo nghị định 08
Trong dự thảo nghị định 08 sửa đổi, đáng chú ý là điều 26a, khoản 1:“Điều 26a. Phân cấp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, cấp giấy phép môi trường thuộc thẩm quyền của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
- Phân cấp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường (trừ dự án thuộc một trong các trường hợp: nằm trên địa bàn từ 02 đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên; nằm trên vùng biển chưa xác định trách nhiệm quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; có xả nước thải vào nguồn nước mặt liên tỉnh đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố theo quy định của pháp luật về tài nguyên nước) sau đây:
a) Dự án đầu tư công không thuộc thẩm quyền quyết định, chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và không thuộc đối tượng quy định tại Phụ lục II Nghị định này;
b) Dự án chăn nuôi gia súc, gia cầm;
c) Dự án được phân loại theo tiêu chí có yêu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất trồng lúa nước từ 02 vụ trở lên;
d) Dự án được phân loại theo tiêu chí có yêu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đất có mặt nước của khu bảo tồn thiên nhiên, di sản thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển, vùng đất ngập nước quan trọng, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, đất có rừng tự nhiên và không thuộc thẩm quyền quyết định, chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ;
đ) Dự án đầu tư trong khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp, không bao gồm: dự án thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nguy hại; dự án có nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất; dự án có phát sinh bụi, khí thải xả ra môi trường thuộc đối tượng phải cấp giấy phép môi trường; dự án đầu tư mới, dự án đầu tư mở rộng của cơ sở đang hoạt động được miễn trừ đấu nối theo quy định của pháp luật.”
Sửa đổi Nghị định 08 là bước cần thiết và bức thiết, mang lại đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội đồng thời bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, việc phân cấp và phân quyền trong việc thẩm định và đánh giá tác động môi trường cũng như cấp phép môi trường đặt ra thách thức về năng lực của các địa phương, đặc biệt là đối diện với các dự án phức tạp về công nghệ và tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường, cũng như khối lượng công việc lớn của cán bộ. Do đó, việc đánh giá năng lực của các địa phương trở nên cần thiết để đảm bảo hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ môi trường, cần xem xét các khía cạnh sau:
Tài chính:
Một trong những vấn đề cơ bản là nguồn lực tài chính. Ngân sách hiện tại thường không đủ để chi trả cho các hoạt động như trả lương, chi phí hoạt động và thuê chuyên gia. Để giải quyết vấn đề này, cần tăng cường ngân sách cho các hoạt động môi trường thông qua việc tăng cấp bổ sung kinh phí cho các cơ quan quản lý môi trường địa phương và xây dựng cơ chế thu phí, lệ phí để bù đắp chi phí hoạt động.
Nhân sự:
Không chỉ là vấn đề tài chính, mà còn là vấn đề nhân sự. Chỉ tiêu nhân sự hiện nay hạn chế khả năng tuyển thêm nhân viên hợp đồng và cộng tác viên ngoài biên chế. Để đáp ứng nhu cầu, cần tăng chỉ tiêu nhân sự cho các cơ quan quản lý môi trường địa phương và thu hút, tuyển dụng các chuyên gia môi trường có trình độ chuyên môn cao.
Trình độ cán bộ:
Một vấn đề quan trọng khác là trình độ cán bộ. Sự chênh lệch về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ hành chính giữa cán bộ địa phương và yêu cầu của công việc tạo ra thách thức. Để giải quyết, cần tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn chuyên môn cho cán bộ môi trường địa phương và mời chuyên gia đến đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn.
Các điểm cần lưu ý:
Ngoài các vấn đề trên, chủ trương khi sửa đổi Nghị định 08/2022/NĐ-CP cần chú trọng đến các vấn đề sau:
- Có chính sách nâng cao năng lực của các hội đồng thẩm định, đánh giá tác động môi trường và cấp phép môi trường tại địa phương. Cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện công tác quản lý môi trường tại địa phương. Tất cả chính sách trên cần tương đồng và phù hợp với “Đề án Tăng cường năng lực hệ thống tổ chức và đội ngũ công chức, viên chức ngành tài nguyên và môi trường đến năm 2030”.
- Tiếp tục hoàn thiện các vấn đề pháp lý để đẩy mạnh xã hội hóa quản lý nhà nước, thực thi và đào tạo nguồn lực cho tài nguyên và môi trường. Khi đạt được mức độ và mục tiêu xã hội hóa sẽ giúp đào tạo trực tiếp và gián tiếp nguồn nhân lực về môi trường, qua đó cung cấp nhân lực có trình độ và chuyên môn về môi trường cho Chính phủ, các Bộ ngành và địa phương.
- Có chính sách kết hợp với Chính phủ và các Bộ, Thực hiện chiến lược thu hút Phân hiệu quốc tế các trường đại học uy tín nhất Thế giới tại Việt Nam để nâng cao trình độ đào tạo và nguồn nhân lực được đào tạo chất lượng cao.
Kết luận:
Việc sửa đổi Nghị định 08/2022/NĐ-CP đã và đang là một bước quan trọng và cần thiết trong việc điều chỉnh hệ thống quản lý môi trường tại Việt Nam. Tuy nhiên, như mọi sự thay đổi, điều này cũng đặt ra một số thách thức mà chúng ta cần phải đối mặt và xử lý.
Phân cấp và phân quyền trong việc thẩm định, đánh giá tác động môi trường và cấp phép môi trường là một trong những vấn đề cần được quan tâm. Việc này đòi hỏi sự thận trọng để đảm bảo cân bằng giữa hiệu quả và năng lực thực thi của các địa phương. Để làm được điều này, chúng ta cần phải tiến hành đánh giá năng lực cụ thể của từng địa phương, dựa trên các yếu tố như tài chính, nhân sự, trình độ cán bộ, cơ sở vật chất và nhiều yếu tố khác nữa. Ngoài ra, cần có các chính sách hỗ trợ để các địa phương có thể nâng cao năng lực thực thi công tác quản lý môi trường.
Nâng cao năng lực là một điểm then chốt không thể bỏ qua. Để thực hiện được công việc quản lý môi trường hiệu quả, cần tăng cường ngân sách và chỉ tiêu nhân sự cho các cơ quan quản lý môi trường địa phương. Đồng thời, cần tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn chuyên môn cho cán bộ môi trường địa phương, cũng như mời các chuyên gia đến để đào tạo và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn.
Các điểm cần lưu ý cũng rất quan trọng để đảm bảo việc thực hiện sửa đổi Nghị định này được hiệu quả. Chúng ta cần có các chính sách để nâng cao năng lực của các hội đồng thẩm định, đánh giá tác động môi trường và cấp phép môi trường tại địa phương, đồng thời cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để đảm bảo việc thực hiện công tác quản lý môi trường diễn ra một cách hiệu quả.
Ngoài ra, việc hoàn thiện các vấn đề pháp lý và kết hợp với Chính phủ cũng là một phần không thể thiếu. Điều này sẽ giúp thúc đẩy xã hội hóa quản lý nhà nước, thực thi và đào tạo nguồn lực cho tài nguyên và môi trường. Việc kết hợp với các tổ chức quốc tế cũng là một hướng để nâng cao trình độ đào tạo và nguồn nhân lực được đào tạo chất lượng cao.
Cuối cùng, để thành công, chúng ta cần phải chú trọng đến việc nâng cao chất lượng hồ sơ đánh giá tác động môi trường, đơn giản hóa thủ tục hành chính và giảm bớt thời gian giải quyết, cũng như giảm chi phí cho doanh nghiệp và người dân.
Với sự đồng lòng và quyết tâm của các cấp, các ngành và toàn xã hội, công tác bảo vệ môi trường tại Việt Nam sẽ ngày càng được nâng cao, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Điều này không chỉ là một nhiệm vụ của chính phủ mà còn là trách nhiệm của mỗi người dân và doanh nghiệp.